Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng (DDK)
54 Nguyễn Lương Bằng, phường Hòa Khánh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng (Xem bản đồ)Trường Đại học Bách khoa (BKĐN; tiếng Anh: Da Nang University of Science and Technology – DUT) là trường đại học đầu ngành về lĩnh vực kỹ thuật ở miền Trung Việt Nam, có trụ sở tại Đà Nẵng, Việt Nam. Trường DUT được xem là trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ hàng đầu khu vực miền Trung Việt Nam, trực thuộc Đại học Đà Nẵng và được xếp vào nhóm các đại học trọng điểm quốc gia.
Năm 2017, trường trở thành 1 trong 4 trường đại học đầu tiên của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu do Hội đồng cấp cao đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học châu Âu (HCERES) công nhận.
Lịch sử
Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng tiền thân là Viện Đại học Đà Nẵng, được thành lập năm 1975 và chính thức mang tên Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng từ năm 1976. Các giai đoạn phát triển chính:
1975:
- Ngày 15 tháng 7 năm 1975, Viện Đại học Đà Nẵng được thành lập theo quyết định số 66/QĐ của Ủy ban nhân dân Cách mạng khu Trung Trung Bộ. Bao gồm các khoa: khoa Dự bị, khoa Điện, khoa Cơ khí và khoa Kinh tế. Khu A hiện nay trước năm 1975 vốn là Đại chủng viện Hòa Bình, phân khoa Triết học của Đại chủng viện Xuân Bích Huế tại Đà Nẵng. Ngày nay, một dãy nhà cổ của Đại chủng viện được giữ lại và là nơi làm việc của Ban giám hiệu nhà trường
1976–1993:
- Tháng 10 năm 1976, Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 426/TTg thành lập trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng trên cơ sở của Viện Đại học Đà Nẵng. Thành lập khoa Cơ bản, khoa Xây dựng.
- Năm 1978, thành lập khoa Hoá.
- Năm 1986, khoa Kinh tế tách ra thành phân hiệu Đại học Kinh tế Đà Nẵng.
- Năm 1988, thành lập khoa Năng lượng.
1994–2003:
- Năm 1994, theo nghị định số 32/CP ngày 4 tháng 4 năm 1994 của chính phủ thành lập DUT, trong đó trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng trở thành trường Đại học Kỹ thuật – một trong những trường thành viên của Đại học Đà Nẵng. Trường Đại học Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng bao gồm các khoa kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất kế thừa từ trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng.
- Năm 1995, khoa Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp, khoa Xây dựng Cầu – Đường và khoa Xây dựng Thủy lợi – Thủy điện được hình thành từ khoa Xây dựng. Thành lập các khoa Công nghệ Nhiệt – Điện lạnh, khoa Cơ sở Kỹ thuật và khoa Công nghệ Thông tin – Điện tử Viễn thông.
- Năm 1997, thành lập khoa Sư phạm Kỹ thuật.
- Năm 1999, Chương trình đào tạo Kỹ sư chất lượng cao (PFIEV) đi vào hoạt động.
2004–nay:
- Năm 2004, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định số 1178/QĐ-BGD&ĐT-TTCB đổi tên trường Đại học Kỹ thuật Đà Nẵng thành trường Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng. Khoa Công nghệ Thông tin – Điện tử Viễn thông được tách ra thành lập hai khoa mới: khoa Công nghệ Thông tin và khoa Điện tử – Viễn thông.
- Năm 2005, khoa Cơ khí Giao thông được thành lập.
- Năm 2006, Chương trình đào tạo đại học tiên tiến Advanced Program đi vào hoạt động.
- Năm 2007, thành lập hai khoa mới: khoa Môi trường và khoa Quản lý Dự án.
- Năm 2012, thành lập khoa Kiến trúc (được tách ra từ bộ môn Kiến trúc – Quy hoạch, khoa Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp).
- Năm 2017, thành lập khoa Khoa học Công nghệ tiên tiến trên cơ sở sáp nhập Chương trình đào tạo Kỹ sư chất lượng cao (PFIEV), Chương trình đào tạo kỹ sư tiên tiến Việt – Mỹ và Trung tâm Xuất sắc.
Chất lượng đào tạo
Đội ngũ giảng viên
Trường hiện có đội ngũ giảng viên cơ hữu với gần 700 cán bộ, công chức, trong đó có 63 Giáo sư và Phó Giáo sư, 295 Tiến sĩ khoa học và Tiến sĩ, 365 Thạc sĩ, 205 Giảng viên cao cấp và Giảng viên chính, 320 Giảng viên. Ngoài ra, có khoảng 300 giảng viên thỉnh giảng là các chuyên gia, cán bộ nghiên cứu đến từ các Viện nghiên cứu, trường đại học uy tín trong và ngoài nước.
Cơ sở vật chất
Diện tích khuôn viên trường hiện nay khoảng 540.900m². Gồm 1 khu nhà hiệu bộ, 8 khu giảng đường với hơn 200 phòng học lớn, 75 phòng thí nghiệm, 8 xưởng thực tập và 20 phòng máy vi tính với hơn 1.000 máy hoạt động thường xuyên.
Một số phòng thí nghiệm tiêu biểu của nhà trường hiện nay như Phòng thực hành Nhúng NOKIA, Phòng thí nghiệm Tự động hóa, Phòng thí nghiệm Plasma, Phòng thí nghiệm Động cơ – Ô tô, Phòng thí nghiệm Cơ khí Hàng không – Vũ trụ, Phòng thí nghiệm Cơ Điện tử, Phòng thí nghiệm Điện tử – Viễn thông, Phòng thí nghiệm Nhiệt – Lạnh, Phòng thí nghiệm Điện – Điện tử, Phòng thí nghiệm Khoa học Xây dựng, Phòng thí nghiệm Hoá – Sinh… Thư viện điện tử lớn và hiện đại nhất miền Trung (với 10.000 chỗ ngồi đọc sách, 450 máy tính nối mạng, 105.000 bản sách với 22.000 đầu sách) đã được đầu tư và đưa vào sử dụng một cách hiệu quả, góp phần đắc lực để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên nhà trường.
Hiệu trưởng qua các thời kỳ
STT | Hiệu trưởng | Thời gian | |
---|---|---|---|
1 | PGS, TS. Lý Ngọc Sáng | 1975 – 1988 | |
2 | GS, TSKH. Phan Kỳ Phùng | 1988 – 1995 | |
3 | PGS, TS. Phạm Phú Lý | 1995 – 2004 | |
4 | GS, TSKH. Bùi Văn Ga | 2004 – 2006 | |
5 | GS, TS. Trần Văn Nam | 2006 – 2010 | |
6 | GS, TS. Lê Kim Hùng | 2010 – 2017 | |
7 | PGS, TS. Đoàn Quang Vinh | 2017 – 2022 | |
8 | PGS, TS. Nguyễn Hữu Hiếu | 2022 – nay |
Đánh giá